Hôm nay (1/1/2013), Luật Biển VN chính thức có hiệu lực nhằm góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo nước nhà.
Sau một quá trình soạn thảo lâu dài, Việt Nam lần đầu tiên có văn bản
luật biển gồm 7 chương 55 điều quy định đầy đủ chế độ pháp lý các vùng
biển đảo thuộc quyền tài phán quốc gia theo đúng Công ước Liên Hiệp Quốc
về Luật Biển (UNCLOS) 1982. Luật Biển Việt Nam chính thức có hiệu lực
từ hôm nay. Sự kiện này và việc Việt Nam cùng thế giới ngày 10/12/2012
kỷ niệm 30 năm ra đời UNCLOS 1982 đều có ý nghĩa quan trọng đối với biển
đảo Việt Nam.
Nỗ lực lâu dài
Vào ngày 10/12/1982, VN cùng 118 quốc gia và vùng lãnh thổ cùng ký
vào văn bản UNCLOS tại Montego Bay, Jamaica. Đây là kết quả của một quá
trình phát triển lâu dài về ý thức của dân tộc Việt Nam đối với biển
đảo.
Luật Biển VN tiếp tục khẳng định chủ quyền của nước ta đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa
Từ năm 1977, Việt Nam (VN) tham dự Hội nghị lần thứ 3 của Liên Hiệp
Quốc (LHQ) về Luật Biển. VN nằm trong 130 quốc gia bỏ phiếu thông qua
Công ước về Luật Biển trong khi các nước Đông Âu và Liên Xô bỏ phiếu
trắng. Tại hội nghị này, nắm bắt xu thế tiến bộ chung, Chính phủ nước ta
ngày 12/5/1977 đưa ra tuyên bố về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa của nước CHXHCN Việt Nam. Đây là một trong
số tuyên bố sớm nhất theo tinh thần Công ước ở khu vực Đông Nam Á. Tiếp
đó, ngày 12/11/1982, Chính phủ nước ta lại ra tuyên bố về đường cơ sở
ven bờ lục địa VN phù hợp theo các quy định của Công ước. Từ hai bản
tuyên bố lịch sử trên, hệ thống luật pháp biển về quyền và lợi ích, các
hoạt động của VN về mọi mặt liên quan đến biển đều lấy Công ước LHQ làm
cơ sở.
UNCLOS 1982 là bản “Hiến pháp đại dương” của nhân loại. Đây còn là
văn bản tổng hợp toàn diện những vấn đề quan trọng nhất về chế độ pháp
lý của biển và đại dương, quy định rõ quyền lợi và nghĩa vụ trên biển
quốc tế. Tương tự Hiến chương LHQ, UNCLOS 1982 là văn kiện pháp lý đa
phương quan trọng nhất trong lịch sử LHQ từ trước đến nay. VN trở thành
nước thứ 64 phê chuẩn UNCLOS 1982.
Ngày 23/6/1994, Quốc hội VN đưa ra nghị quyết phê chuẩn công ước và
nộp lưu chiểu lên LHQ vào ngày 25/7/1994, trước khi UNCLOS chính thức có
hiệu lực trên thế giới từ ngày 16/11/1994. Chấp hành nghị quyết do Quốc
hội phê chuẩn, VN luôn tuân thủ và tôn trọng UNCLOS trong mọi hoạt động
liên quan đến biển của mình. Đồng thời, nước ta cũng đã ban hành nhiều
văn bản pháp quy về các lĩnh vực liên quan đến biển phù hợp với công ước
này.
Bảo vệ chủ quyền
Sau khi ký UNCLOS 1982, VN đã vận dụng các điều khoản trong công ước
để bảo vệ quyền lợi quốc gia trên biển. Điển hình như việc Tổ hợp các
công ty cáp quang của Anh, Úc, Nhật, Singapore, Indonesia và Hồng Kông
cùng Đài Loan vào năm 1985 muốn đặt 550 hải lý cáp quang Sin-Hon-Tai qua
vùng biển nước ta. Tuy nhiên, một số nước trong dự án trên định không
thông báo cho VN. Đáp lại, chúng ta vận dụng quy định trong công ước
rằng việc đặt cáp có liên quan đến khoan đào và nghiên cứu khoa học
biển, khu vực cáp đi qua là những lĩnh vực mà quốc gia ven biển có đặc
quyền và quyền tài phán. Vì thế, tổ hợp trên đã vi phạm luật pháp quốc
tế nên phải nhận sai, tiến hành xin lỗi đồng thời nộp 330.000 USD cho
khoản lệ phí dịch vụ khoa học. Bên cạnh đó, VN cũng cử đại diện giám sát
quá trình đặt cáp.
Theo đúng tinh thần UNCLOS 1982, nước ta nhiều năm qua từng bước tăng
cường cơ sở vật chất, lực lượng để bảo vệ, quản lý và khai thác có hiệu
quả vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa rộng lớn của mình. Ví dụ như
tăng cường hải quân, radar, máy bay tuần thám biển, thành lập lực lượng
cảnh sát biển… Đồng thời, VN cũng xây dựng chiến lược biển, đẩy mạnh
khai thác các nguồn lợi biển, phân lô đấu thầu khai thác dầu khí trên
vùng biển thuộc quyền tài phán hợp pháp của mình theo UNCLOS 1982.
Đặc biệt, VN triển khai đấu tranh bảo vệ chủ quyền đối với 2 quần đảo
Hoàng Sa – Trường Sa dựa theo UNCLOS 1982. Ngày 4/11/2002, nước ta cùng
các thành viên ASEAN và Trung Quốc đã ký Tuyên bố về cách ứng xử của
các bên trên biển Đông tại Phnom Penh, Campuchia. Theo đó, “Các bên cam
kết giải quyết mọi tranh chấp lãnh thổ bằng biện pháp hòa bình, không sử
dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, thông qua trao đổi ý kiến và
thương lượng giữa các quốc gia có chủ quyền liên quan phù hợp với các
nguyên tắc được công nhận rộng rãi của pháp luật quốc tế, trong đó có
UNCLOS 1982”. Hiện nay, VN đang cùng các nước ASEAN và Trung Quốc thảo
luận để thông qua Bộ quy tắc về cách ứng xử (COC) trên Biển Đông.
Những quy định nổi bật
Một trong những thành tựu có ý nghĩa to lớn trong việc VN thực thi
UNCLOS là ban hành Luật Biển nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý của nước
ta phục vụ cho việc sử dụng, quản lý bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia
trên các vùng biển đảo của Tổ quốc. Việc ban hành Luật Biển VN là bước
nội luật hóa thành công UNCLOS 1982 theo đúng trách nhiệm của một quốc
gia là thành viên công ước này. Trong đó, một số điểm nổi bật của Luật
Biển VN có thể kể ra như:
1 – Tiếp tục khẳng định chủ quyền của VN đối với 2 quần đảo Hoàng Sa –
Trường Sa thông qua điều 1 chương I và điều 19 chương II. Lập trường
này tiếp nối nhất quán quan điểm trong Nghị quyết Quốc hội phê chuẩn
UNCLOS 1982 và Luật Biên giới quốc gia VN 2003. Điều 19 và 20 thuộc
chương II cũng quy định rõ về các đảo đá nhằm bảo vệ các vùng biển VN.
2 – Luật Biển VN nêu cụ thể hơn 5 vùng biển thuộc quyền tài phán quốc
gia: nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh
tế và thềm lục địa. Theo đó, vùng nội thủy tính từ bờ biển đến đường cơ
sở, vùng lãnh hải rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở, tiếp đó vùng tiếp
giáp lãnh hải cũng rộng 12 hải lý và vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý.
Đồng thời, thềm lục địa ít nhất rộng 200 hải lý và tối đa là 350 hải lý
tính từ đường cơ sở ven bờ lục địa VN hoặc cách đường đẳng sâu 2.500 m
một khoảng cách không quá 100 hải lý. Như vậy chủ quyền của VN được
khẳng định từ đất liền ra đến vùng nội thủy và lãnh hải, quyền chủ quyền
và quyền tài phán quốc gia đến hết vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa.
3 – Luật Biển VN 2012 quy định chi tiết về các hoạt động trong vùng
biển VN, quy định rõ những hành vi mà tàu thuyền nước ngoài không được
làm khi đi qua; luật cũng quy định về vấn đề tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ,
giữ gìn bảo vệ tài nguyên và môi trường biển; về hợp tác nghiên cứu khoa
học biển…
4 – Đặc biệt, Luật Biển VN 2012 dành hẳn chương IV để quy định về
phát triển kinh tế biển. Trong đó có quy định việc quy hoạch, xây dựng
và phát triển kinh tế biển đảo; nhà nước ưu tiên, tạo điều kiện thuận
lợi cho tổ chức, cá nhân hoạt động kinh tế biển đảo trên nguyên tắc gắn
với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền quốc gia, quốc phòng, an ninh, trật tự an
toàn trên biển.
5 – Điều 4, chương I quy định rõ các nguyên tắc quản lý và bảo vệ
biển. Trong đó, VN luôn nhất quán “nhà nước giải quyết các tranh chấp
liên quan đến biển đảo với các nước khác bằng biện pháp hòa bình, phù
hợp với UNCLOS 1982, luật pháp và thực tiễn quốc tế”.
(BTN)